Hotline: | |
Miss Thủy: |
Facebook 1: Thủy Sự Kiện
Facebook 2: VữngBền SựKiện
Zalo: Thuysukien
1. Chùa Dâu
Chùa Dâu, còn có tên là Diên Ứng, Pháp Vân ,
hay Cổ Châu, là một ngôi chùa nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh
Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km. Chùa còn được người dân gọi với những tên
gọi khác nhau như chùa Cả, Cổ Châu tự, Duyên ứng tự. Đây là ngôi chùa được đánh
giá là xưa nhất Việt Nam.
Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu. Đây là trung tâm cổ xưa
nhất của Phật giáo Việt Nam.
Tại vùng Dâu có bốn ngôi chùa cổ: Pháp Vân ("mây pháp), Pháp Vũ (mưa
pháp), Pháp Lôi (sấm pháp) và Pháp Điện (chớp pháp). Bốn chùa này ngoài thờ
Phật còn thờ các nữ thần: Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Dàn, Bà Tướng.
* Lịch sử
Chùa được xây dựng vào buổi đầu Công Nguyên. Các nhà sư Ấn Độ đầu tiên đã từng
đến đây. Vào cuối thế kỷ 6, nhà sư Tì-ni-đa-lưu-chi từ Trung Quốc đến chùa này,
lập nên một phái Thiền ở Việt Nam.
Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, là ngôi chùa lâu
đời nhất và gắn liền với lịch sử văn hóa, Phật giáo Việt Nam, được Nhà nước xếp
hạng di tích lịch sử ngày 28 tháng 4 năm 1962.
Chùa Dâu gắn liền với sự tích Phật Mẫu Man Nương thờ tại chùa Tổ ở làng Mèn Mãn
Xá cách chùa Dâu 1 km.
Chùa được xây dựng lại vào năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp
theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa
Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp. Hiện nay, ở tòa thượng
điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm khắc thời nhà Trần và thời nhà Lê.
* Kiến trúc
Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, chùa Dâu được xây dựng theo
kiểu "nội công ngoại quốc". Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao
quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Hậu đường xưa
giờ không còn nữa, nhưng khách thăm chùa vẫn còn được chứng kiến bốn mươi gian
nhà oản hai bên tả hữu.
Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những pho tượng thờ.
Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu
đồng hun, cao gần 2 m được bày ở gian giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi
to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây
Trúc. Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị Pháp
phá hủy, nên tượng Bà Đậu (Pháp Vũ) cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu. Tượng Pháp
Vũ với những nét thuần Việt, đức độ, cao cả. Những tượng này đều có niên đại
thế kỷ 18.
Bên trái của thượng điện có pho tượng Mạc Đĩnh Chi, tượng được đặt trên một bệ
gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14.
Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn
ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã
lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m nhưng
vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc
chữ "Hòa Phong tháp". Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có
4 cửa vòm. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh
đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở bốn góc. Trước tháp, bên phải
có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m,
cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán.
Có câu thơ lưu truyền dân gian:.
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
Ngày hội chùa Dâu được tổ chức rất long trọng và quy mô, tuyến hành hương về
nơi đất Phật còn mở rộng tới chùa Phúc Nghiêm - chùa Tổ - nơi thờ Phật Mẫu Man
Nương.
2. Chùa Bút Tháp
* Lịch Sử
Chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự) nằm ở bên đê sông Đuống, thôn Bút Tháp, xã Đình
Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ngoài ra, nhân dân trong vùng còn gọi là
chùa Nhạn Tháp. Trong chùa có tượng Bồ tát Quan Thế Âm thiên thủ thiên nhãn
bằng gỗ lớn nhất Việt Nam Lịch sử
Theo sách Địa chí Hà Bắc (1982) thì chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông
(1258-1278). Thiền sư Huyền Quang (đỗ Trạng nguyên năm 1297) đã trụ trì ở đây.
Ông cho dựng ngọn tháp đá cao 9 tầng có trang trí hình hoa sen. Ngọn tháp này
nay không còn nữa. Đến thế kỷ 17, chùa đã trở nên nổi tiếng với sư trụ trì là
Hòa thượng Chuyết Chuyết (1590-1644), người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, sang
Việt Nam
năm 1633 và trụ trì ở chùa. Năm 1644, Hòa thượng viên tịch và được vua Lê phong
là "Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư". Tiếp đó, người kế
nghiệp trụ trì chùa Bút Tháp là Thiền sư Minh Hạnh, học trò xuất sắc của Hòa
thượng Chuyết Chuyết. Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc
(Diện Viên) đã rời bỏ cung thất, về đây tu hành. Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà
cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), xin phép Chúa Trịnh
Tráng, rồi bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng tu lại ngôi chùa. Đến
năm 1647, chùa mới được làm xong. Chùa kiến trúc theo kiểu "Nội Công Ngoại
Quốc". Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay chính là
ngôi chùa được xây dựng trong thời kỳ đó.
Đời vua Tự Đức, năm 1876, khi vua qua đây thấy có một cây tháp hình dáng khổng
lồ liền gọi tên là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn ghi là tháp Bảo Nghiêm.
Chùa được trùng tu vào các năm 1739, 1903, 1915, 1921 và gần đây vào năm
1992-1996. Đây là ngôi chùa có kiến trúc quy mô hoàn chỉnh nhất còn lại ở Việt Nam.
* Kiến trúc
Đây là một quần thể kiến trúc còn giữ lại nhiều di tích của thế kỷ 17. Phật
điện của chùa gần như nguyên sơ của chùa cổ Việt Nam, gồm 10 nếp nhà nằm trên
mộ trục dài hơn 100 m. Qua cửa Tam quan, đến gác chuông hai tầng, tám mái.
Chùa chính với 3 dãy nhà Tiền đường - Thiên hương - Thượng điện tạo thành chữ
"công". Cách bố trí như vậy làm nổi bật điện thờ bên trong với các
pho tượng.
Đáng chú ý nhất ở chùa là tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng do nhà
điêu khắc họ Trương tạc năm 1656. Tượng cao 3,7 m, ngang 2,1 m, dày 1,15 m.
Cánh tay xa nhất có chiều dài là 200 cm. Tượng có 11 đầu, 42 tay lớn và 789 tay
dài ngắn khác nhau. Tính từ đài sen lên, tượng cao 235 cm. Đầu rồng đội tòa sen
cao 30 cm, bệ tượng cao 54 cm. Đây được coi là một kiệt tác độc nhất vô nhị về
tượng Phật và nghệ thuật tạc tượng - nghệ thuật làm nổi bật triết lý nhà Phật
bằng thứ ngôn ngữ tạo hình hàm súc. Phật ngồi trên toà sen hồng qua bệ tượng
hình vuông được trang trí bằng những nét chạm khắc cổ với dáng hành đạo, thư
thái, đôi mắt quảng đại như bao quát cả không gian vũ trụ. Ở đây có nhiều mô
tip quen thuộc được trang trí ở chùa Việt Nam như hoa lá, cây cảnh cùng các con
vật - trong đó có rồng - ngư với viên ngọc; lân với quả cầu; quạt hai vòng
tròn, sóng nước, hoa sen,... Tượng Quan Âm hai tay chắp trước ngực, hai tay để
trên đùi với những ngón tay đan chéo biểu tượng cho dáng hành đạo và nhập định;
các chùm tay để trần từ sườn, vai, lưng, trên người; những tay được xếp vòng
tròn từ lớn đến nhỏ hướng vào tâm (ngay sau gáy Phật) trong lòng mỗi bàn tay
lại hiện lên một con mắt. Nhìn tổng thể tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay như
những vòng hào quang toả ra từ tâm điểm.
Hai kiệt tác điêu khắc khác nữa làm thành một bộ ba tác phẩm danh bất hư truyền
là tượng Tây Thiên Đông Độ Việt Nam
lịch đại Tổ sư và tượng Thị Kính. Pho tượng Tuyết Sơn ở đây cũng là một kiệt
tác của thế kỷ 17. Qua nhà tiền đường là đến nhà thiêu hương.
Ngoài ra, trong chùa có hơn 70 pho tượng gỗ được tạc trong tư thế quỳ, đứng,
ngồi với nét mặt thành kính trông rất sinh động như pho tượng Kim Đồng - Ngọc
Nữ,... còn tượng La Hán lại thể hiện cảm xúc nội tâm, mang nặng ý tưởng Phật
giáo.
Phủ thờ nằm sau Phật điện là ngôi nhà 5 gian có hai pho tượng đáng chú ý. Hai
pho tượng này là chân dung hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (nhà Lê) đầu đội vương
miện nhưng khoác áo tu hành, và công chúa Ngọc Duyên. Cả hai pho tượng đều ngồi
theo dáng toạ thiền.
Từ thượng điện, đi qua một chiếc cầu đá có ba nhịp uốn cong dẫn đến ngôi nhà
gọi là Tích Thiện am. Trên cầu có 12 bức phù điêu đá chạm chim muông hoa lá.
Tích Thiện am là một ngôi nhà có ba tầng mái.
Trong Tích thiện am, có cây Cửu Phẩm Liên Hoa, là một tháp bằng gỗ 9 tầng, 8
mặt, có thể quay tròn quanh một trục, có gắn tượng Phật và chạm những cảnh dân
gian hay lấy đề tài trong Phật thoại.
Chùa có tháp Bảo Nghiêm thờ Hoà thượng Chuyết Chuyết, trông tháp giống như cây
bút khổng lồ vươn thẳng tới trời cao thanh vắng. Tháp cao 13,05 m, năm tầng với
một phần đỉnh xây bằng đá xanh; ngoài tầng đáy rộng hơn, bốn tầng trên gần
giống nhau, rộng 2 m. Năm góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ. Lòng tháp có một
khoang tròn đường kính 2,29 m. Ngoài kỹ thuật xây dựng đá, phần bệ tượng được
bao quanh bằng hai vòng tường cấu tạo bằng cột và lan can. Riêng ở tầng trệt
của toà tháp này có mười ba bức chạm lấy đề tài động vật làm chính. Tháp thể
hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời của người thợ Việt Nam xưa.
Kiến trúc chùa vẫn dùng khung gỗ chịu lực nhưng nền bệ lan can dùng đá rất phổ
biến, trên có những hình động vật được khắc trông sinh động .
3.Chùa phật tích
Tượng Phật A di đà trên núi chùa
Chùa Phật Tích (Phật Tích tự) còn gọi là chùa Vạn Phúc (Vạn Phúc tự) là một
ngôi chùa nằm ở sườn phía Nam
núi Phật Tích (còn gọi núi Lạn Kha, non Tiên), xã Phật Tích, huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh. Trong chùa có tượng đức Phật bằng đá thời nhà Lý lớn nhất Việt Nam
* Lịch sử
Theo tài liệu cổ thì chùa Phật Tích được khởi dựng vào năm Thái Bình thứ 4
(1057) với nhiều tòa ngang dãy dọc. Chùa được xây dựng vào thời nhà Lý. Ngôi
chùa vào thời Lý hiện nay không còn nữa.
Năm 1066, vua Lý Thánh Tông lại cho xây dựng một cây tháp cao. Sau khi tháp đổ
mới lộ ra ở trong đó bức tượng Phật A-di-đà bằng đá xanh nguyên khối được dát
ngoài bằng vàng. Để ghi nhận sự xuất hiện kỳ diệu của bức tượng này, xóm Hỏa Kê
(gà lửa) cạnh chùa đổi tên thành thôn Phật Tích.
Văn bia Vạn Phúc Đại Thiền Tự Bi năm Chính Hòa thứ bảy (1686) ca ngợi vẻ đẹp
của cảnh chùa: "Đoái trông danh thắng đất Tiên Du, danh sơn Phật Tích, ứng
thế ở Càn phương (hướng Nam) có núi Phượng Lĩnh bao bọc, phía tả Thanh Long
nước chảy vòng quanh. Phía hữu Bạch Hổ núi ôm, trên đỉnh nhà khai bàn
đá..."
Năm 1071, vua Lý Thánh Tông đi du ngoạn khắp vùng Phật Tích và viết chữ
"Phật" dài tới 5 m, sai khắc vào đá đặt trên sườn núi. Bà Nguyên phi
Ỷ Lan có đóng góp quan trọng trong buổi đầu xây dựng chùa Phật Tích.
Thời bấy giờ vua Trần Nhân Tông đã cho xây tại chùa một thư viện lớn và cung
Bảo Hoa. Sau khi khánh thành, vua Trần Nhân Tông đã sáng tác tập thơ "Bảo
Hoa dư bút" dày tới 8 quyển. Vua Trần Nghệ Tông đã lấy Phật Tích làm nơi
tổ chức cuộc thi Thái học sinh (thi Tiến sỹ).
Vào thời nhà Lê, năm Chính Hòa thứ bảy đời vua Lê Hy Tông, năm 1686, chùa được
xây dựng lại với quy mô rất lớn, có giá trị nghệ thuật cao và đổi tên là Vạn
Phúc tự. Người có công trong việc xây dựng này là Bà Chúa Trần Ngọc Am - đệ
nhất cung tần của Chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, khi Bà đã rời phủ Chúa về tu
ở chùa này. Bia đá còn ghi lại cảnh chùa thật huy hoàng: "... Trên đỉnh
núi mở ra một tòa nhà đá, bên trong sáng như ngọc lưu ly. Điện ấy đã rộng lại
to, sáng sủa lại kín. Trên bậc thềm đằng trước có bày mười con thú lớn bằng đá,
phía sau có Ao Rồng, gác cao vẽ chim phượng và sao Ngưu, sao Đẩu sáng lấp lánh,
lầu rộng và tay rồng với tới trời sao,cung Quảng vẽ hoa nhụy hồng...". Đời
vua Lê Hiển Tông (1740-1786), một đại yến hội đã được mở ở đây.
Nhưng rồi vẻ huy hoàng và sự thịnh vượng của chùa Phật Tích cũng chỉ tồn tại
sau đó được gần 300 năm. Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ và chùa bị tàn
phá nhiều. Chùa đã bị quân đội Pháp đốt cháy hoàn toàn vào năm 1947.
Khi hòa bình lập lại (1954) đến nay, chùa Phật Tích được khôi phục dần. Năm
1959, Bộ Văn hóa cho tái tạo lại 3 gian chùa nhỏ làm nơi đặt pho tượng A-di-đà
bằng đá quý giá. Tháng 4 năm 1962, nhà nước công nhận chùa Phật Tích là di tích
lịch sử-văn hoá.
* Kiến trúc
Tượng Phật A di đà phục chế theo nguyên mẫu trong chùa, đặt tại Viện Bảo tàng
Lịch sửChùa được kiến trúc theo kiểu "nội công ngoại quốc", sân chùa
là cả một vườn hoa mẫu đơn rực rỡ. Bên phải chùa là Miếu thờ Đức chúa tức bà
Trần Thị Ngọc Am là đệ nhất cung tần của chúa Trịnh Tráng tu ở chùa này, có câu
đối "Đệ nhất cung thần quy Phật địa. Thập tam đình vũ thứ tiên
hương". Bà chẳng những có công lớn trùng tu chùa mà còn bỏ tiền cùng dân
13 thôn dựng đình. Bên trái chùa chính là nhà tổ đệ nhất thờ Chuyết chuyết Lý
Thiên Tộ. Ông mất tại đây năm 1644 thọ 55 tuổi, hiện nay chùa còn giữ được pho
tượng của Chuyết công đã kết hỏa lúc đang ngồi thiền.
Cho tới nay, chùa Phật Tích có 7 gian tiền đường để dùng vào việc đón tiếp
khách, 5 gian bảo thờ Phật, đức A di đà cùng các vị Tam thế Phật, 8 gian nhà tổ
và 7 gian nhà thờ thánh Mẫu.
Ngôi chùa có kiến trúc của thời Lý, thể hiện qua ba bậc nền bạt vào sườn núi.
Các nền hình chữ nhật dài khoảng 60 m, rộng khoảng 33 m, mặt ngoài bố trí các
tảng đá hình khối hộp chữ nhật.
Theo tương truyền, bậc nền thứ nhất là sân chùa với vườn hoa mẫu đơn, nơi xảy
ra câu truyện Từ Thức gặp tiên: "...Từ Thức đi xem hội hoa mẫu đơn, gặp
Giáng Tiên bị bắt trói vì tội hái trộm hoa. Từ Thức bèn cởi áo xin tha cho tiên
nữ. Sau Từ Thức từ quan đi du ngoạn các danh lam thắng cảnh, đến động núi ở cửa
biển Thần Phù gặp lại Giáng Tiên..." Do tích này, trước đây chùa Phật Tích
mở hội Hoa Mẫu Đơn hàng năm vào ngày mồng bốn tháng giêng để nhân dân xem hoa
và các văn nhân thi sĩ bình thơ.
Bậc nền thứ hai là nơi có các kiến trúc cổ ngày nay không còn được thấy. Khi
đào xuống nền ngôi chùa này, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều di vật điêu
khắc thời nhà Lý và nền móng của một ngôi tháp gạch hình vuông, mỗi cạnh dài
8,5 m.
Nền thứ ba cao nhất, có Long Trì (Ao Rồng) là một cái ao hình chữ nhật, đã cạn
nước.
Sau sân nền có 32 tháp xây bằng gạch và đá là nơi cất giữ xá lị của các nhà sư
từng trụ trì ở đây, phần lớn được dựng vào thế kỷ 17.
Nhiều tác phẩm điêu khắc thời nhà Lý còn được giữ tại chùa cho đến nay. Ngay ở
bậc thềm thứ hai, có 10 tượng thú bằng đá cao 10 m, gồm sư tử, voi, tê giác,
trâu, ngựa, mỗi loại hai con, nằm trên bệ hoa sen tạc liền bằng những khối đá
lớn.
Giữa chùa là pho tượng Phật bằng đá xanh ngồi thiền định trên tòa sen, cao 1,85
m. Trên bệ và trong những cánh sen, có những hình rồng và hoa lá đặc trưng cho
thời Lý. Ở chùa còn có những di vật thời Lý khác như đá ốp tường, đấu
kê,...trên đó chạm khắc các hình Kim Cương, Hộ Pháp, các nhạc công, vũ nữ
v.v...
Trong Ức Trai Thi Tập, Nguyễn Trãi có bài thơ vịnh cảnh chùa Phật Tích:
Đoản trạo hệ tà dương
Thông thông yết thượng phương
Vần quy thiền sáp lãnh
Hoa lạc giản lưu hương
Nhật mộ viên thanh cấp
Sơn không trúc ảnh trường
Có trung chân hữu ý
Dục ngữ hốt hoàn vương. Bóng xế thuyền con buộc
Vội lên lễ Phật đài
Mây về giường sãi lạnh
Hoa rụng suối hương trôi
Chiều tối vượn kêu rộn
Núi quang, trúc bóng dài
Ở trong dường có ý
Muốn nói bỗng quên rồi.
(Đào Duy Anh dịch)
Hàng năm vào ngày 4 tết Nguyên Đán, nhân dân Phật Tích thường mở hội truyền
thống để tưởng nhớ công lao các vị tiền bối đã khai sinh và tu tạo chùa. Trong
những ngày xuân tưng bừng ấy, khách thập phương về đây lễ Phật, hái hoa mẫu
đơn, thưởng ngoạn cảnh đẹp vùng Kinh Bắc hoặc tham dự các trò chơi ngày hội như
đấu vật, chơi cờ, đánh đu, hát quan họ...
* Di cốt của sư tổ
Năm 1988, đã xảy ra một vụ trộm tại khu tháp này: Kẻ gian đã nạy cửa tháp Báo
Nghiêm để kiếm vàng và đồ cổ. Chúng đã vứt ra một vại sành trong đó có chứa di
cốt người và những mảnh bó cốt có cấu tạo giống như mảnh bồi của tượng nhà sư
chùa Đậu.
Phó tiến sỹ Nguyễn Lân Cường cho biết: "Rất tiếc, vị sư trụ trì của chùa
đã mất từ trước khi vụ trộm xảy ra cách đó 8 năm. Khi đến thôn Rao Mộc, cách
chùa 15 km, chúng tôi gặp cụ Nguyễn Chí Triệu vốn là sư bác ở chùa 45 năm về
trước. Theo lời cụ Triệu, trước đây, trong khán thờ có một pho tượng của sư tổ,
chân xếp bằng tròn theo thế ngồi thiền, hai tay đặt trước bụng, lòng bàn tay
ngửa."
Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy tất cả 133 mảnh xương và 209 mảnh bồi. Trong số
này có đốt sống, xương đùi, xương chày, một phần xương hàm trên, đặc biệt có
một xương hàm dưới, một phần xương trán cùng hốc mắt phải đính với hai mũi. Dựa
vào các xương chi, các nhà khoa học tính toán chiều cao của nhà sư khoảng 1,6
m. Qua phân tích cấu tạo của khuyết hông và khớp mu, các nhà khoa học khẳng
định đây là di hài của một nhà sư nam khoảng 65 - 70 tuổi.
Khi nghiên cứu những mảnh bồi, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một đoạn dây đồng
đã gỉ mầu xanh. Điều này chứng tỏ: Sau khi cải táng, người ta lấy xương của nhà
sư đã tịch, đem dựng khung tạo thành hình ngồi thiền, rồi mới bồi ra bên ngoài
để tạo tượng. Điều này khác với kỹ thuật tạo tượng nhà sư Vũ Khắc Minh ở chùa
Đậu.
Với mong muốn phục nguyên di hài thiền sư ở chùa Phật Tích, nhóm các nhà khoa
học do PTS Nguyễn Lân Cường chỉ đạo đã áp dụng phương pháp Guerasimov phục hồi
mặt theo xương sọ.
Ngày 12 tháng 1 năm 1993, các nhà khoa học bắt tay tiến hành phục nguyên di
hài. Trước hết, họ dựng tượng nhà sư bằng đất sét theo phương pháp Guerasimov;
đổ khuôn thạch cao tạo các mảnh khuôn rồi gỡ các mảnh khuôn, phá tượng đất đi.
Sau đó, họ bôi sơn ta, lót vải màn, rắc mạt cưa trộn sơn ta và gắn xương vào
đúng vị trí. Để thành tượng, các nhà khoa học phá tiếp khuôn thạch cao, gỡ các
mảnh bó cốt và gắn lại. Cuối cùng, họ đem thếp bạc rồi quang dầu lên tượng. Sau
khi tượng được hoàn thành, tại khu vực này đã diễn ra lễ rước tượng về chùa
Phật Tích với sự tham dự của hàng nghìn người dân. Đây là lần đầu tiên Việt Nam phục nguyên
thành công một pho tượng theo phương pháp Guerasimov kết hợp với sơn ta cổ
truyền của dân tộc.
4. Chùa Tiêu
* Lịch sử
Chùa thường gọi là chùa Tiêu, xưa có tên là chùa Lục Tổ, tọa lạc ở sườn núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội 20km về phía Bắc dọc theo quốc lộ 1A. ĐT: (0241)833946. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa được dựng từ thời Lý. Chùa là nơi tu thiền và giảng pháp của nhiều cao tăng thời Lý, như Thiền sư Vạn Hạnh. Ở chùa có tấm bia đá cao 0,68m, ngang 0,40m, khắc bốn chữ: “Lý Gia Linh Thạch”. Sách Từ điển di tích văn hóa Việt Nam (Hà Nội, 1993) giới thiệu chùa này xưa là nơi trụ trì của Thiền sư Vạn Hạnh đồng thời cũng là nơi sinh của vua Lý Thái Tổ. Sử xưa cho biết ở Viện Cảm Tuyền chùa Thiên Tâm có con chó đẻ con sắc trắng đốm đen thành hình hai chữ “Thiên tử” điều đó ứng với việc vua Lý Thái Tổ sinh năm Giáp Tuất rồi lên làm vua.Chùa được trùng tu nhiều lần.
Tháp Viên Tuệ
* Kiến trúc
Cổng chùa hiện nay được xây năm 1986. Chùa xưa từng lưu giữ ván in sách Thiền uyển tập anh, một tác phẩm ghi chép về các danh tăng Việt Nam có giá trị về văn học, sử học, triết học.
Đặc biệt, chùa còn giữ tháp mộ và nhục thân Thiền sư Như Trí, viên tịch năm Quý Mão (1723), là người có công khắc in cuốn Thiền Uyển tập anh. Ngày 05 – 3 – 2004, nhục thân Ngài đã được PGS.TS Nguyễn Lân Cường cho thỉnh chuyển về chùa Duệ Khánh, xã Nội Duệ (Bắc Ninh) để thực hiện dự án tu bổ – bảo quản. Công việc hoàn thành vào ngày 26 – 9 – 2004. Khi tu bổ, các quy trình bọc vải, bó, hom, lót, thí, được thể hiện đầy đủ và thận trọng với 13 lớp sơn và thếp bạc. Pho tượng gốc nặng 34kg, chiều cao ngồi 78,5cm được đặt ở nhà Tổ trong một khám sơn son thếp vàng có hộp kính kín dày 10mm, chứa đầy khí nitơ để bảo vệ.
5. Những đền chùa nổi tiếng khác.
Ngoài ra còn rất nhiều chùa trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh như: Chùa Lim (Hồng Ân), Chùa Bách Môn ( Chùa Linh Cảm), Chùa Dạm, Chùa Hàm Long, Chùa Linh Ứng (Chùa Ngọc Khám), Chùa Cảm Ứng (Chùa Tam Sơn), Chùa Phúc Nghiêm (Chùa Tổ), Đền Đô, Đền Bà Chúa Kho, Đền Giếng,…
Nguồn: Sưu tầm internet